Hoàng thái tử (chữ Hán: 太子) hay còn được gọi là Vương thái tử (王太子), là một danh vị dành cho người kế vị vị Vua trong các quốc gia có văn hóa chữ Hán. Trong thời kì Tiên Tần và nhà Hán, “Thái tử” cũng được dùng để gọi người kế vị các Chư hầu mang tước hiệu Vương.

Thông thường, trong thế giới chữ Hán, người được chọn kế vị đều là nam giới và thường là con trai trưởng của Hoàng đế hiện tại. Đối với các Chư hầu, những người cai trị vùng lãnh thổ hoặc quốc gia xưng tước Vương, từ thời kỳ nhà Tào Ngụy, danh xưng “Thái tử” dành cho người kế vị của họ đã được thay thế bằng danh xưng “Vương thế tử”.

Từ nguyên

Chữ 「Thái; 太」 trong danh hiệu này có nghĩa là “người lớn nhất”. Vào thời Tiên Tần, Trữ quân của nhà Chu và các Chư hầu lớn như nước Sở đều xưng là Thái tử, để biểu thị sự khác biệt so với các Vương tử khác và chỉ người sẽ kế vị trong tương lai.

Khi nhà Hán thành lập, Trữ quân thừa kế Hoàng đế sẽ được gọi là [Hoàng thái tử]. Các Trữ quân của Chư hầu mang tước hiệu Vương sẽ được gọi là [Vương thái tử][1][2][3], trong khi người kế vị của Chư hầu mang tước hiệu Công sẽ được gọi là Thế tử. Tuy nhiên, vào thời kỳ nhà Tào Ngụy, việc sử dụng “Thái tử” để chỉ người kế thừa tước hiệu Vương đã gây nhầm lẫn với việc kế thừa tước hiệu Hoàng đế, do đó từ đó trở đi, các Trữ quân của Chư hầu sẽ được gọi là “Thế tử”, và “Thái tử” sẽ trở thành một tước hiệu riêng biệt để chỉ Trữ quân của tước hiệu Hoàng đế.

Vị trí trong triều đình

Vì vai trò là người kế vị, Thái tử không giống với Hoàng tử hay Vương tử có phòng riêng ngoài hoàng cung. Phòng ở của Thái tử thường được đặt ở phía Đông cung, vì vậy thường được gọi là Đông cung. Cũng có thể gọi là Trữ cung vì đó là cung điện của Trữ quân. Trong nguyên tắc ngũ hành, hướng Đông thuộc về Mộc, màu “Thanh”, và thuộc mùa xuân, nên còn được gọi là Thanh cung hay Xuân cung để tránh sự nhầm lẫn. Tuy nhiên, sau này các cách gọi này thường chỉ có ý nghĩa tượng trưng cái gì đó tiềm tàng. Vị trí của Thái tử trong quá khứ có thể tạo thành một thể chế quyền lực tương tự với Vua, vì trong Đông cung cũng có các chức quan tương tự như hệ thống quan viên trong triều đình. Các quan viên này chủ yếu có nhiệm vụ giáo dục Thái tử và không có quyền hạn đáng kể. Tuy nhiên, nếu Thái tử thừa kế ngôi vị, các quan viên này sẽ được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Ngoài ra, trong Đông cung cũng có các hoạn quan và nữ quan, tương tự như trong hoàng cung, để phục vụ Thái tử và gia đình. Do vai trò của mình, Thái tử có chiếc áo mũ và lễ nghi khác biệt so với Hoàng tử / Vương tử khác và thường có một hệ thống giản lược hơn so với Vua.

Ở Nhật Bản, cũng có vị trí Thái tử, do các vị Vua Nhật tự xưng là Thiên hoàng và có địa vị ngang với Hoàng đế. Các Thái tử tại Nhật Bản cũng được xem là vô cùng quý giá, vì họ là những người sẽ trở thành Thiên hoàng trong tương lai. Nơi ở của Thái tử được gọi là Đông cung Ngự sở, hay còn gọi là Xuân cung. Do tình hình lịch sử biến động, trong các thời đại trước thời Minh Trị, vai trò kế vị của Đông cung rất không rõ ràng, chỉ cần có sự can thiệp là bất kỳ Hoàng tử nào cũng có thể trở thành Thiên hoàng. Sau thời Minh Trị, trật tự kế vị ở Nhật Bản ổn định hơn, và quy định chỉ Người kế vị của Thiên hoàng, con trưởng tử chính thống, mới được phép thừa kế. Cách gọi Thái tử ở Nhật Bản không giống với Trung Quốc và Việt Nam. Theo thông lệ, tất cả các Hoàng tử Nhật Bản đều có tên theo mẫu “Hoàng thái tử [tên]”, và ngay cả khi là Hoàng thái tử, chỉ cần thêm chữ “Hoàng thái tử” trước tên mình. Ví dụ như Hoàng thái tử Naruhito, trong thời gian là trưởng tử của ngài, được gọi bằng tên Kanji là Hoàng thái tử Đức Nhân Thân vương (皇太子徳仁親王), và thái tử phi được gọi là Hoàng thái tử Đức Nhân Thân vương phi (皇太子徳仁親王妃).

Có Thể Bạn Quan Tâm :   VGA là gì? Những điều bạn cần biết Card đồ hoạ trên máy tính

Trong lịch sử Việt Nam, Hoàng thái tử lần đầu tiên được lập là khi Đinh Tiên Hoàng chọn con trai là Đinh Hạng Lang làm Hoàng thái tử. Đây cũng là lần đầu tiên danh xưng “Hoàng thái tử” được sử dụng trong lịch sử của nước ta. So với Trung Quốc, vị trí của Hoàng thái tử ở Việt Nam vẫn rất cao quý. Trong thời nhà Trần, có quy chế nghiêm cẩn và Lê Phụ Trần làm chức “Trữ Cung giáo thụ”, có trách nhiệm giáo dục Thái tử Trần Nhân Tông. Có thể thấy, Hoàng thái tử ở Việt Nam cũng rất được coi trọng. Triều đại nhà Lý có đặc điểm chọn Hoàng thái tử ngầm, dùng tước hiệu Vương để gọi, ví dụ như Lý Thái Tông từng là “Khai Thiên vương”, Lý Thái Tông là “Khai Hoàng vương”, Lý Long Xưởng là “Hiển Trung vương”,… Thật sự, từ ban đầu không có công khai chọn ai là Hoàng thái tử, chỉ là những lựa chọn không chính thức mà thôi. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại lời bàn của Lê Văn Hưu như sau: 「”Nhà Lý phong các con với tước Vương, các con thứ lại làm Hoàng tử mà không đặt ngôi Hoàng thái tử. Khi nào Hoàng đế mắc bệnh mới chọn một người trong các con để tiếp nghiệp lớn. Theo từ từ thành tục, không biết ý nghĩa là gì”」. Dựa trên điều này, có thể thấy rằng việc chọn Hoàng thái tử là cong khai chỉ diễn ra khi Hoàng đế gần đến ngày truyền ngôi. Điều này tương tự với việc Bí mật lập Trữ mà nhà Thanh sử dụng. Tuy vậy, các nhân vật như Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông đều được ghi lại với tước hiệu Hoàng thái tử mà không có tước Vương, do đó, tình trạng này vẫn còn khá mâu thuẫn.

Trong văn hóa hiện đại của Việt Nam, có một thuyết gọi là “Tứ bất lập” của nhà Nguyễn, bao gồm: “Không lập Hoàng hậu, không lập Tể tướng, không lấy đỗ Trạng nguyên và không lập Thái tử”. Tuy nhiên thuyết này không có cơ sở vì thực tế, nhà Nguyễn đã có rất rõ qui định về việc lập Hoàng hậu và Thái tử. Có rất nhiều ví dụ chứng minh điều này:

  • Năm 1815, Vua Gia Long lập Nguyễn Phúc Đảm làm Hoàng thái tử.
  • Năm 1922, Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy được Vua Khải Định lập làm Hoàng thái tử.
  • Năm 1939, Hoàng đích trưởng tử Nguyễn Phúc Bảo Long được Vua Bảo Đại lập làm Hoàng thái tử.
Có Thể Bạn Quan Tâm :   Sự khác nhau giữa Điều kiện hóa cổ điển và Điều kiện hóa từ kết quả

Các ví dụ trên cho thấy nhà Nguyễn không có hạn chế về việc lập Thái tử. Lí do khiến việc lập Thái tử chậm chạp trong các triều đại trước đó, có thể được suy ra từ ba yếu tố chính: tình hình chính trị, thiếu người phù hợp và vấn đề kinh tế do các buổi lễ tấn phong tốn kém. Theo Kham dinh Dai Nam hoi dien su le, sách lễ tân lập Hoàng thái tử làm bằng vàng, có 5 tờ gồm 2 tờ trước và sau khắc hình rồng mây và 3 tờ giữa khắc sách văn, dài 5 tấc 6 phân 6 ly, ngang 3 tấc 2 phân 4 ly, dày 2 ly. Hộp đựng sách làm bằng bạc chạm hình mây rồng, và được đựng trong 1 hộp gỗ sơn son. Bảo ấn làm bằng vàng, vuông 2 tấc 4 phân 3 ly, dày 3 phân 2 ly, có núm hình rồng phủ phục. 5 chữ “Hoàng thái tử chi bảo” được khắc lên. Hộp đựng bằng gỗ sơn son và bằng đồng. Có thêm 1 ấn bằng bạc khắc chữ “Thị tín”, vuông 6 phân 7 ly, dày 3 phân, có núm rồng phủ phục.

Các Thái tử nổi tiếng

Trung Quốc:

  1. Tần Nhị Thế Doanh Hồ Hợi, Hoàng đế thứ hai của nhà Tần, và là Hoàng thái tử đầu tiên trong lịch sử Đông Á.
  2. Lệ Thái tử Lưu Cứ, đích trưởng tử của Hán Vũ Đế Lưu Triệt, đã chết trong biến loạn triều đình.
  3. Đông Hải Cung vương Lưu Cương, đích trưởng tử của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú, đã nhường ngôi Hoàng thái tử cho em trai là Hán Minh Đế Lưu Trang.
  4. Mẫn Hoài Thái tử Tư Mã Duật, đích trưởng tử của Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung. Cái chết của ông đã châm ngòi cho loạn bát vương trong triều đình Tấn.
  5. Ẩn Thái tử Lý Kiến Thành, đích trưởng tử của Đường Cao Tổ Lý Uyên. Bị giết trong biến cố Huyền Vũ môn.
  6. Thường Sơn Mẫn vương Lý Thừa Càn, đích trưởng tử của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Bị phế truất.
  7. Đường Nghĩa Tông Lý Hoằng, đích trưởng tử của Đường Cao Tông Lý Trị.
  8. Ý Văn Thái tử Chu Tiêu, đích trưởng tử của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, cha ruột của Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn.
  9. Lý Mật Thân vương Dận Nhưng, đích trưởng tử của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đã bị phế và phục vị hai lần. Là vị Hoàng thái tử nổi tiếng nhất trong lịch sử nhà Thanh.

Việt Nam:

  1. Đinh Hạng Lang, con trai thứ của Đinh Tiên Hoàng, đã bị Nam Việt vương Đinh Liễn sát hại.
  2. Lê Long Thâu, trưởng tử của Lê Đại Hành.
  3. Lê Trung Tông, con trai thứ của Lê Đại Hành, đã đăng quang và chỉ ngồi trên ngôi vương trong 3 ngày trước khi bị em trai Lê Chân Đĩnh sát hại.
  4. Lý Long Xưởng, trưởng tử của Lý Anh Tông, đã bị phế truất vì tội thông dâm với một phi tần trong hoàng cung.
  5. Lý Chiêu Hoàng, con gái duy nhất của Lý Thái Tông, đã trở thành Hoàng đế nhưng chỉ trong một năm sau đó bị ép nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông.
  6. Trần Trịnh, con trưởng tử của Trần Thái Tông, đã qua đời ngay sau khi sinh ra.
  7. Lê Nghi Dân, trưởng tử của Lê Thái Tông, được lập làm Hoàng thái tử nhưng sau đó bị phế truất. Sau đó ông tiến hành cuộc binh biến giết chết em trai là Lê Nhân Tông để chiếm ngôi.
  8. Lê Duy Vĩ, con trưởng tử của Lê Hiển Tông, bị Trịnh Sâm hãm hại. Ông là cha ruột của Lê Chiêu Thống.
  9. Nguyễn Phúc Cảnh, con trưởng tử của Gia Long.
  10. Nguyễn Phúc Bảo Long, con trưởng tử của Bảo Đại, là Hoàng thái tử cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Có Thể Bạn Quan Tâm :   Hàng khay là gì? Có phải là ma túy? Tất tần tật về hàng khay phá ke

Văn hóa Châu Âu và các khu vực khác

Ở các quốc gia châu Âu, đa số đều sử dụng tước Vương, và dù có danh xưng [“Crown Prince”] hay [“Hereditary Prince”] để chỉ người kế vị, nhưng trong tiếng Anh, nó thường được sử dụng như một cụm từ như Trữ quân, chứ không phải là một tước hiệu chính thức như trong các quốc gia Đông Á.

Trữ quân trong phần lớn quốc gia châu Âu thường có đất đai cụ thể, như:

  • Hoàng tử Wales (Prince of Wales) của Vương quốc Anh;
  • Công tước Rothesay (Duke of Rothesay) của Vương quốc Scotland;
  • Hoàng tử Orange (Prince of Orange) của Vương quốc Hà Lan;
  • Hoàng tử Asturias (Príncipe de Asturias) của Vương quốc Tây Ban Nha.

Ngoài ra, cũng có những quốc gia có danh hiệu gần giống với “Thái tử” và tập trung vào việc xưng hô hơn là quản lý lãnh thổ, như danh hiệu Le Dauphin của Pháp, Tsesarevich của Đế quốc Nga và Vua Đức của các Hoàng đế La Mã.

Đặc biệt, các danh hiệu này không phụ thuộc vào vai trò, tức là không cần phải gọi “Thái đệ” hoặc “Thái tôn” nếu là em trai/cháu trai của một Vua như các quốc gia Đông Á. Trong cơ bản, cho dù vai trò của Trữ quân ở châu Âu có thay đổi so với Quân chủ, tước hiệu này vẫn không thay đổi, và khi gọi các Trữ quân của các quốc gia này, người ta vẫn sử dụng các tước hiệu cụ thể đó, chứ không gặp phải tình trạng cân nhắc xưng hô như trong các quốc gia Đông Á. Tước hiệu tương đương với “Thái tử” như Le Dauphin và Tsesarevich cũng không áp dụng cân nhắc xưng hô như trên (ngoại trừ trường hợp Công tước Konstantin Pavlovich của Nga). Vì lý do này, việc dịch các Trữ quân của Châu Âu thành “Thái tử” khá không chính xác. Tuy nhiên, ở Thụy Điển và Na Uy, cách gọi chính thức là “Crown Prince” (Thái tử), trong ngôn ngữ bản địa được gọi là [Kronprins]. Vào thế kỷ 18 và 19, xuất hiện các danh hiệu Prince Imperial của Đế quốc Brazil, hay Prince Royal của Pháp thời cách mạng Pháp và Bồ Đào Nha thời kỳ hiện đại gần. Lúc này, cụm từ “Thái tử” có thể được sử dụng một cách chính xác.

Ở các quốc gia Trung Đông, các Trữ quân cũng có danh hiệu riêng tương đồng với Thái tử và Thế tử, và khi dịch ra tiếng Anh, chúng thường được dịch là [“Crown Prince”] nói chung, ví dụ:

  • Vala Hazrat-i-Humayun Vali Ahd, Shahzada [tên Trữ quân]: danh hiệu Trữ quân trong nhà Pahlavi và nhà Qajar.
  • Prince of the Sa’id: danh hiệu Trữ quân của Ai Cập Hồi giáo, được thiết lập bởi Fuad I của Ai Cập.

Chú thích

Tham khảo

  • Chu lễ
  • Minh sử
  • Thanh sử cảo
  • Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
Back to top button